Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024

Hương Mi
TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo về kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 và dự báo cả năm.

Kinh tế Việt Nam trong quý 2 và 6 tháng đầu năm 2024 đạt nhiều kết quả tích cực, ghi nhận 8 điểm sáng:

Một là, Quốc Hội, Chính phủ tiếp tục nỗ lực hoàn thiện thể chế, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Về hoàn thiện thể chế, Quốc hội đã thông qua nhiều Luật, Nghị quyết quan trọng, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, tháo gỡ rào cản thể chế, trong đó có Nghị quyết cho phép Luật Đất đai 2024, Luật Nhà ở 2023, Luật Kinh doanh BĐS 2023 có hiệu lực từ ngày 1/8/2024 (sớm hơn 5 tháng so với dự kiến khi ban đầu). Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, nghị quyết, chỉ thị, các bộ ngành ban hành các thông tư hướng dẫn thực hiện các Luật đã được thông qua (nhất là Luật khám chữa bệnh 2023, Luật đấu thầu 2023, Luật giá 2023, Luật giao dịch điện tử 2023, Luật Đất đai 2024, Luật Nhà ở 2023, Luật Kinh doanh BĐS 2023, Luật TCTD 2024…) để kịp thời giải quyết các tồn đọng, khơi thông nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội…v.v. Tại kỳ họp thứ 7 vừa qua, Quốc Hội cũng đã thông qua 11 luật (trong đó có 1 số luật đáng lưu ý như Luật Đấu giá tài sản sửa đổi, Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi, Luật Thủ đô sửa đổi…) và Nghị quyết về cơ chế đặc thù cho TP. Đà Nẵng và Nghệ An. Cùng với đó, nhiều nghị quyết, giải pháp tháo gỡ vướng mắc cho các thị trường đất đai, bất động sản, tài chính, y tế, du lịch, điện năng…cũng đã được ban hành và tích cực triển khai.

Về chính sách tài khóa (CSTK) theo hướng mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, thúc đẩy giải ngân đầu tư công, 3 chương trình mục tiêu quốc gia, phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tiền tệ (CSTT) để thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, Quốc Hội, Chính phủ đã quyết nghị nhiều chính sách, gói hỗ trợ tài khóa thông qua giảm, giãn thuế, phí, lệ phí năm 2024…với tổng giá trị danh nghĩa khoảng 185.000 tỷ đồng, tương đương giảm thu NSNN 68.000 tỷ đồng (gần bằng những năm dịch Covid-19).

Chính sách tiền tệ theo hướng linh hoạt, chủ động, kịp thời và hiệu quả, đảm bảo cân bằng giữa tăng trưởng và lạm phát, giữa lãi suất và tỷ giá, phối hợp chặt chẽ với CSTK; Chính phủ, NHNN đã ban hành nhiều quyết sách thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, kiểm soát chất lượng tín dụng, giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tăng cường khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, tiếp tục cho phép cơ cấu lại nợ (giữ nguyên nhóm nợ) đến hết năm 2024, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, dùng nhiều công cụ ổn định tỷ giá, thị trường vàng cùng với việc ban hành nhiều Nghị định, Thông tư hướng dẫn Luật TCTD 2024.

Về chuyển đổi số và cải cách hành chính, nhiều chính sách, giải pháp được triển khai nhằm đẩy mạnh việc thực hiện Đề án 06 về phát triển dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia, đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi số tại các Bộ, ngành, địa phương; cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường liên thông, tích hợp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng thông tin dịch vụ công quốc gia…v.v.

5285-6815jpg-17196300106211842612784

Hai là, GDP quý 2 ước đạt 6,93% và 6 tháng đầu năm đạt 6,42% so với cùng kỳ, cao hơn mục tiêu tại Nghị quyết 01. Các động lực tăng trưởng cả phía cung và cầu đều tăng tích cực. Về phía cầu, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tăng 15,7% (tăng mạnh từ mức giảm -15,2% của 6T/2023 và cao hơn mức tăng 9% của 6T/2019), cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 11,6 tỷ USD; tích lũy tài sản (đầu tư) tăng 6,72% (gấp 5,8 lần 6T/2023, thấp hơn mức 7,15% cung kỳ 2019); tiêu dùng cuối cùng tăng 5,78% (gấp 2,2 lần 6T/2023 song vẫn thấp hơn mức trước dịch (7,05% cung kỳ năm 2019).

Về phía cung, khu vực nông nghiệp tăng 3,4%; công nghiệp và xây dựng tăng 7,51% (trong đó công nghiệp chế biến - chế tạo tăng 8,7%); dịch vụ tăng 6,64%, cao hơn so với mức nền thấp của cùng kỳ 6T/2023 (3 lĩnh vực tăng lần lượt 3,07%, 1,13% và 6,33%) song mức tăng của khu vực công nghiệp và xây dựng, dịch vụ vẫn thấp hơn so với trước dịch (hai lĩnh vực này tăng 8,93% và 6,69% trong 6T/2019). Mặc dù còn một số cấu phần chưa đạt mức trước dịch song đây là mức tăng trưởng khả quan trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, cho thấy nền kinh tế tiếp tục khởi sắc, nhiều khả năng đạt "cận trên" mục tiêu tăng trưởng (6,5%) cả năm 2024.

Ba là, xem xét cụ thể một số động lực tăng trưởng truyền thống cho thấy đà phục hồi khá đồng đều. Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 368,53 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 190,1 tỷ USD, tăng 14,5% (từ mức giảm -11,3% trong 6 tháng đầu năm 2023, cao hơn mức tăng 7,2% của 6T/2019), nhờ đà phục hồi của nhu cầu thế giới, nhất là tại các đối tác lớn của Việt Nam (xuất khẩu sang Mỹ tăng 22,1% sang EU tăng 14,1%, ASEAN tăng 12,9%...). Cán cân thương mại thặng dư 11,63 tỷ USD, góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối.

Thu hút và giải ngân FDI tiếp tục khởi sắc. Trong 6 tháng đầu năm, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam ước đạt 15,2 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ, giải ngân vốn FDI đạt 10,84 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 6 năm (Trong 6T/2019, FDI đăng ký giảm 9,2%, giải ngân tăng 8,1%; Trong 6T/2023, FDI đăng ký giảm 4,3%, giải ngân tăng nhẹ 0,5%). Kết quả khả quan này khẳng định niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng tăng trưởng và cơ hội đến từ dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu đối với Việt Nam.

Tiêu dùng tiếp tục đà phục hồi với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 6T/2024 tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước nhờ lượng khách du lịch tăng mạnh (8,8 triệu lượt khách quốc tế, tăng 58,4% so với cùng kỳ năm 2023 và tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2019). Đà phục hồi tích cực của bán lẻ cùng với tiêu dùng của khu vực Nhà nước góp phần đưa tiêu dùng cuối cùng đóng góp cao nhất (64,26%) vào tăng trưởng GDP trong 6 tháng đầu năm. Tuy nhiên, mức tăng doanh thu bán lẻ vẫn thấp hơn 6T/2023 (11,3%) và mức trước dịch (6T/2019 tăng 10,8%).

Giải ngân đầu tư công đạt kết quả khả quan dù không đồng đều và còn chậm, đầu tư tư nhân phục hồi. Tổng số vốn giải ngân trong 6 tháng đầu năm ước đạt 244,41 nghìn tỷ đồng, bằng 33,8% kế hoạch năm và tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Đầu tư tư nhân tăng 6,7%, gấp 3,2 lần mức tăng 2,1% cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, tốc độ tăng giải ngân đầu tư công vẫn thấp hơn cùng kỳ 6T/2023 (+4,2%) và 6T/2019 (+22,5%), trong đó một số bộ, ngành, địa phương có tỷ lệ giải ngân đầu tư công rất thấp, đòi hỏi phải quyết liệt hơn trong 6 tháng cuối năm mới đạt yêu cầu.

Sản xuất công nghiệp (SXCN) phục hồi tích cực. Trong 6 tháng đầu năm 2024, chỉ số SXCN tăng 7,7% so với cùng kỳ (so với mức giảm -1,2% của cùng kỳ năm 2023, song vẫn thấp hơn mức tăng 9,5% cùng kỳ 6T/2019) chủ yếu là do xuất khẩu và cầu nội địa tăng khá. Chỉ số PMI sản xuất đạt 54,7 điểm trong tháng 6/2024, tăng mạnh so với mức 50,3 điểm của tháng 5/2024 và mức 50,5 điểm của tháng 6/2023 và mức 52,5 điểm của tháng 6/2019, là mức cao nhất kể từ tháng 5/2022 nhờ sự cải thiện tích cực của đơn hàng mới, xuất khẩu và niềm tin kinh doanh. Tuy nhiên, đà phục hồi của sản xuất công nghiệp chưa đồng đều do, nhiều ngành còn khó khăn về điều kiện sản xuất, chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng, mức độ tham gia chuỗi giá trị ngành chưa cao…v.v.

Bốn là, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát dù giá cả đầu vào tăng (chỉ số giá SXCN - PPI tăng 0,25%, chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 7% so với cùng kỳ năm 2023) và áp lực cầu kéo tăng dần (tín dụng hết 6 tháng đầu năm ước tăng 5,2% so với đầu năm, vòng quay tiền ở mức 0,65 lần (tương đương mức 0,64 lần cả năm 2023). CPI bình quân 6T/2024 tăng 4,08% và lạm phát cơ bản bình quân tăng 2,75% so với cùng kỳ, thấp hơn mức tăng cùng kỳ 6T/2023 (4,74%). Tuy nhiên, áp lực lạm phát vẫn còn, nhất là khi giá nhiều mặt hàng do Nhà nước quản lý (lương cơ sở, y tế, giáo dục, điện…) dự báo còn tăng theo lộ trình.

Năm là, mặt bằng lãi suất ổn định, tín dụng phục hồi: lãi suất tiền gửi tăng 0,5-1% từ đầu năm đến nay nhưng lãi suất cho vay cơ bản ổn định. Trong 6 tháng đầu năm, tín dụng ước tăng 5,2% so với cuối năm 2023, cải thiện khá mạnh so với mức 2,41% cuối tháng 5/2024, cao hơn mức tang 3,36% của 6T/2023 nhờ đà phục hồi của hoạt động đầu tư, tiêu dùng, thị trường BĐS. Tín dụng dự báo cả năm tăng 13-14%, phù hợp với diễn biến vĩ mô, nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán tăng trưởng tích cực (chỉ số VNIndex tăng 10,2% so với đầu năm (tương đương mức tăng 11,2% của 6T/2023 và cao hơn mức 6,43% của 6T/2019) cùng với đà tăng trưởng kinh tế và cải thiện sức khỏe doanh nghiệp (lợi nhuận toàn thị trường ước tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2023); thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường bất động sản đang dần phục hồi.

Sáu là, thu NSNN tăng khá cùng với đà phục hồi của sản xuất, tiêu dùng. Thu NSNN trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt 1.021 nghìn tỷ đồng, bằng 60% dự toán năm, tăng 15,7%; chi ngân sách Nhà nước giảm nhẹ 0,1% so với cùng kỳ, một phần là do tốc độ tăng đầu tư công tại một số bộ, ngành, địa phương còn chậm. NSNN thặng dư 216,4 nghìn tỷ đồng, gấp 3 lần cùng kỳ 6T/2023, tạo dư địa tài khóa hỗ trợ người dân và DN. Các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, nợ công, nợ nước ngoài, thâm hụt ngân sách thấp hơn mức trung bình của thế giới và các nước đang phát triển và mới nổi; nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ dưới ngưỡng Quốc Hội cho phép; an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an sinh xã hội và sinh kế của người dân được đảm bảo. Nhờ đó, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P ngày 20/6 đánh giá Việt Nam ở mức Ổn định trong dài hạn và có thể phục hồi mức tăng trưởng 6,5-7% trong giai đoạn 2025-2030.

Bảy là, công tác quy hoạch, đầu tư kết cấu hạ tầng tiếp tục được quan tâm thúc đẩy. Quy hoạch phát triển KTXH, ngành, vùng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 hoặc 2050 của nhiều vùng, địa phương, ngành; kế hoạch triển khai Quy hoạch điện VIII đã được ban hành; công nghệ 5G đã thử nghiệm thành công, các dự án sân bay, cao tốc được đẩy nhanh tiến độ, tạo điều kiện phát triển KTXH trước mắt cũng như lâu dài.

Tám là, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Các chuyến thăm giữa lãnh đạo cấp cao của Việt Nam và Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga…; việc tích cực tham gia nhiều diễn đàn, cơ chế đa phương quan trọng như Liên hợp quốc, ASEAN, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) Đại Liên 2024, Diễn đàn Tương lai ASEAN (AFF) 2024…tiếp tục góp phần nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam; tạo cơ hội thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và du lịch thời gian tới.

Dự báo kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm và cả năm 2024

- Về tăng trưởng GDP: trong bối cảnh quốc tế như nêu trên cùng với kết quả tăng trưởng khả quan của 6 tháng đầu năm, môi trường pháp lý ngày càng được hoàn thiện, các động lực tăng trưởng (cả truyền thống và mới) được khai thác, phát huy hiệu quả cao hơn; kinh tế vĩ mô tiếp tục duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, niềm tin của doanh nghiệp và người dân được củng cố; tăng trưởng kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm có khả năng đạt 6,3-6,8% và cả năm có thể đạt 6,3-6,5% (kịch bản cơ sở), đạt cận trên mục tiêu do Quốc hội và Chính phủ đề ra, hoặc có thể khả quan hơn, khoảng 6,5-6,7% (kịch bản tích cực). Trong đó, tăng lương cơ sở có thể khiến GDP tăng thêm 0,3-0,5 điểm %, lạm phát tăng thêm 0,2-0,3 điểm % trong năm 2024 và có thể cao hơn trong năm 2025-2026 (chi tiết xem bài đánh giá tác động tăng lương).

- Về lạm phát: áp lực lạm phát trong 6 tháng cuối năm 2024 dự báo sẽ ở mức cao hơn cùng kỳ năm 2023 do yếu tố chi phí đẩy (đặc biệt là giá năng lượng, giá nguyên vật liệu, chi phí logistics còn ở mức cao; việc điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý như tiền điện, học phí, tăng lương cơ sở, lương tối thiểu vùng theo lộ trình từ ngày 1/7/2024…) và cả yếu tố cầu kéo (cung tiền dự báo tăng cao hơn cùng với đà phục hồi kinh tế).

Tuy nhiên, lạm phát năm 2024 sẽ vẫn trong tầm kiểm soát và không đáng quan ngại (CPI bình quân tăng khoảng 3,8-4,2% theo kịch bản cơ sở) nhờ tác động cộng hưởng của các yếu tố hỗ trợ kiềm chế lạm phát (như giá cả và lạm phát toàn cầu đang hạ nhiệt, giá dầu dự báo đi ngang, ở mức tương đương năm 2023, cung tiền tăng song vòng quay tiền còn chậm, khoảng 0,7-0,9 lần, áp lực tỷ giá giảm dần và phối hợp chính sách ngày càng tốt hơn).

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV