Đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Tạp chí Tài chính doanh nghiệp phối hợp với các bên liên quan tổ chức Diễn đàn Đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.

Phát biểu Khai mạc Diễn đàn, Tổng biên tập Tạp chí Tài chính doanh nghiệp Hà Khắc Minh cho biết: Việc đổi mới mô hình tăng trưởng của nước ta nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh, phát triển nhanh và bền vững toàn diện kinh tế, xã hội và môi trường. Không thúc đẩy tăng trưởng bằng mọi giá, gây nên những tác động xấu. Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng chú trọng và dựa nhiều hơn vào các nhân tố thúc đẩy tăng năng suất lao động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực và thành tựu khoa học - công nghệ của nhân loại, mọi tiềm năng, lợi thế của các ngành, lĩnh vực, các địa phương và cả nước.

Ngày 10/7/2024 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 108/NQ-CP tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2024 và hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương (Nghị quyết 108). Trong đó nêu rõ, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm và trong thời gian tới như sau: Ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; Quyết liệt đẩy mạnh hơn nữa giải ngân vốn đầu tư công, thực hiện 03 Chương trình mục tiêu quốc gia; Chú trọng thực hiện thực chất, hiệu quả cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh.

Trên thực tế, trong nửa đầu năm 2024, nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng ở mức 6,42% trong nửa đầu năm 2024. Các chuyên gia cho rằng tăng trưởng GDP cả năm 2024 có thể chạm mốc gần 7% sau khi Việt Nam có quý tăng trưởng vượt tiềm năng thứ 4 liên tiếp...

1

 

 

 Còn theo TS. Chử Đức Hoàng, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF), Bộ Khoa học và Công nghệ cho hay, hiện trạng cơ cấu sản xuất, dịch vụ tại Việt Nam hiện nay gồm dịch vụ chiếm 43,65%; công nghiệp và xây dựng chiếm 35,47%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,22%; nông, lâm nghiệp thủy sản chiếm 11,66%.

Xu hướng chuyển đổi hiện nay là tăng tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 32,1% (2010) lên 38,1% (2023), dự kiến đạt 40% vào năm 2030. Dịch vụ duy trì vai trò chủ đạo chiếm khoảng 50% GDP trong suốt giai đoạn, dự kiến tiếp tục ổn  định  ở  mức  50%  đến  năm 2030. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP tăng từ 13% (2010) lên 25% (2023), mục tiêu đạt trên 30% vào năm 2030. Kinh tế số chiếm khoảng 14,3% GDP (2023), mục tiêu đạt 20% GDP vào năm 2025 và 30% vào năm 2030. Kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn đang trong giai đoạn phát triển ban đầu; Mục tiêu đóng góp ngày càng quan trọng vào GDP đến năm 2030.

Tuy nhiên, theo ông Hoàng, trong quá trình chuyển đổi Việt Nam đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức. Đó là năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Việc áp dụng công nghệ mới trong sản xuất còn hạn chế. Nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Các thủ tục hành chính còn phức tạp, thiếu minh bạch. Hệ thống giao thông, logistics còn hạn chế ở nhiều nơi. Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền. Phát triển công nghiệp nhanh dẫn đến ô nhiễm gia tăng. Lực lượng lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế hiện đại; cần cải cách giáo dục và đào tạo để nâng cao chất lượng.

Chia sẻ về vai trò của công nghệ cao và ứng dụng mới đối với chuyển đổi kép, ông Hoàng cho biết đó là tự động hóa quy trình sản xuất. Robotics và hệ thống tự động giúp tăng tốc độ sản xuất, giảm sai sót do con người, và cho phép hoạt động liên tục 24/7. Hệ thống sản xuất linh hoạt (FMS) cho phép thay đổi nhanh chóng giữa các loại sản phẩm, tăng khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường.

Internet of thing (IOT) và dữ liệu lớn (BIG DATA) để giám sát thời gian thực, cho phép theo dõi và điều chỉnh quy trình sản xuất ngay lập tức. Phân tích dự đoán giúp dự báo nhu cầu bảo trì, ngăn ngừa sự cố và tối ưu hóa sản xuất.

Trí tuệ nhân tạo (Al) và máy học (Machine Learning) kiểm soát chất lượng. Hệ thống thị giác máy tính có thể phát hiện lỗi sản phẩm nhanh chóng và chính xác hơn con người. Tối ưu hóa quy trình: AI có thể phân tích dữ liệu sản xuất để đề xuất cải tiến quy trình.

Công nghệ in 3D và Sản xuất phụ gia giúp tạo mẫu nhanh, rút ngắn thời gian phát triển sản phẩm mới. Sản xuất linh hoạt, cho phép tạo ra các sản phẩm tùy chỉnh với chi phí thấp.

Thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR) nhằm đào tạo nhân viên. Cung cấp môi trường học tập an toàn và hiệu quả. Hỗ trợ vận hành, AR có thể cung cấp hướng dẫn trực quan cho nhân viên trong quá trình sản xuất.

Blockchain giúp truy xuất nguồn gốc, đảm bảo tính minh bạch và an toàn trong chuỗi cung ứng. Quản lý chất lượng, giúp theo dõi và xác minh chất lượng sản phẩm qua các giai đoạn sản xuất.

Điện toán đám mây để quản lý dữ liệu, cho phép lưu trữ và xử lý lượng lớn dữ liệu sản xuất. Hợp tác từ xa, tạo điều kiện cho các đội ngũ làm việc cùng nhau bất kể vị trí địa lý.

Ông Võ Trí Thành, nguyên Phó viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương chia sẻ, năm 2012, Quốc hội thông qua chương trình tái cấu trúc bao gồm 3 lĩnh vực đầu tư công, tín dụng, tài chính ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước. Sau đó bắt nhịp cuộc cách mạng đổi mới sáng tạo, startup, khởi nghiệp. Tuy nhiên bức tranh tổng thể mô hình tăng trưởng của chúng ta vẫn vậy, chưa có sự đột phá. Vì sao như vậy?

PV

Link nội dung: https://dnvn.com.vn/day-manh-doi-moi-mo-hinh-tang-truong-kinh-te-o-viet-nam-a454124.html